Mô tả
- Bào ngư là một loại ốc biển có cấu tạo đặc biệt, thuộc ngành nhuyễn thể, có vỏ cứng bao gồm phần thân rộng và phần xoắn ốc tiêu giảm tạo thành một khối hình bầu dục dẹt và khum, mặt ngoài sần sùi, có vân màu nâu tím và xanh xen kẽ, mặt trong nhẵn bóng có lớp xà cừ óng ánh, ở mép có 7-13 lỗ nhỏ có gò xếp thành một hàng đều đặn không có nắp, thường là 9 (nên có tên là cửu khổng), còn các lỗ khác thoái hoá chỉ còn lại vết là những lỗ thở.
- Thân bào ngư dính vào mặt trong vỏ bằng các cơ. Chân bào ngư là một khối thịt mềm dính liền với thân, phát triển rộng ở xung quanh mép vỏ, luôn co giãn để di chuyển, bám chắc hoặc co rút vào trong vỏ khi gặp động hoạc bị bắt.
Phân bố, sinh thái
- Bào ngư phân bố ở những vùng biển ấm, chủ yếu ở các đảo và những nơi có nhiều đá ngầm với độ sâu từ 2 đến 12m, độ mặn cao và nước thật trong, có nhiều rong tảo, nhất là loại rong mơ (Sargassum). Chúng bám chặt vào đá, nên chống chịu được với sóng to, gió lớn ở biển cả. Chuyên ăn rong, tảo đa bào.
- Mùa sinh sản vào tháng 1 -2. Bào ngư có nhiều ở Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Cô Tô (Quảng Ninh) và các hòn đảo khác thuộc Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam – Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Bình Định, Khánh Hoà, Bình Thuận.
- Ở Việt Nam, mới phát hiện được 3 loài là bào ngư hình bầu dục (Haliotis ovina Gmelin), bào ngư hình vành tai (Haliotis asinina L.) và bào ngư chín lồ (Halintis diversicolor Reeve).
- Ở các địa phương, ngư dân khai thác bào ngư một cách lẻ tẻ và tự phát, rồi thu gom bán cho các lái buôn dể xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam cũng như nhiều nước trong khu vực đã có kế hoạch nuôi và nhân giống bào ngư trong lổng tự tạo để chủ động việc thu bắt và sử dụng cũng như bảo vệ triệt để nguồn đặc sản quý giá này.
Bộ phận dùng
Vỏ bào ngư, tên thuốc trong y học cổ truyền, là thạch quyết minh (Trung Quốc gọi là quang để thạch quyết minh). Thịt bào ngư (nhục ngư bào). Tất cả đều được lấy từ ba loài bào ngư đã phát hiện.
Cách lấy vỏ:
Bào ngư bắt về, rửa sạch cát và rêu bám ở ngoài vỏ, rồi rửa lại bằng nước muối, sau đó, cạy vỏ, lấy thịt, bỏ ruột, phơi khô. Có khi, người ta luộc cả con rồi gỡ thịt, bóc lấy vỏ mà dùng (cách này dễ làm nhưng dược liệu không đẹp và phẩm chất kém hơn). Khi dùng, để sống hoặc nung lên, tán bột.
Ở Trung Quốc, người ta còn chế diêm thạch quyết minh bằng cách dặt vỏ bào ngư trên lò không khói, đốt cho hơi đỏ hồng, lấy ra, phun nước muối với tỷ lệ 0,28 kg muối cho 1kg vỏ. Để khô, nghiền nhỏ. Dược liệu thạch quyết minh có hình bầu dục hoặc gần bán cầu, nhìn mặt trong hơi giống cái tai người, dài 3,5- 8,5cm, rộng 2,5- 5,5cm. Mặt ngoài vỏ màu nâu xám, có một chỗ lồi ở đỉnh với nhiều vân nổi sắp xếp theo đưòng xoắn ốc từ nhỏ đến to hướng về bên phải, những lỗ nhỏ chạy song song với mép vỏ, mặt trong có màu sáng bóng như hạt trai. Chất cứng chắc, khó bỏ vỡ. Thứ vỏ to dày, nguyên vẹn, không sứt mẻ, ngoài sạch, trong trắng là loại tốt.
Thành phần hoá học
Vỏ bào ngư chứa nhiều chất Carbonat calci. Thịt bào ngư giàu chất dinh dưỡng, có tỷ lệ cao các chất protid, lipid và các vitamin.
Tính vị, công năng
Theo tài liệu cổ, vỏ bào ngư có vị mặn, tính bình, không độc, có tác dụng bổ gan thận, thanh nhiệt, lợi tiểu, làm sáng mắt. Thịt bào ngư có vị ngọt, mặn, tính ấm, dùng bổ dưỡng, tăng cường thể lực, làm tóc lâu bạc, giảm ho, lợi sữa.
Công dụng
- Vỏ bào ngư: Được dùng từ thế kỷ XIV, chủ trị chóng mặt, hoa mắt, thong manh, mắt mò có màng mộng, thị lực kém, còn chữa đái buốt, di tinh, đau dạ dày, chảy máu. Hàng ngày, dùng 4- 8g dưới dạng thuốc bột hay 15- 30g dạng thuốc sắc.
- Thịt bào ngư: về mặt thực phẩm, bào ngư là một trong tám món ăn “cao lương, mỹ vị” nổi tiếng (bát trân) của phương Đông, cùng với yến sào (tổ chim yến hàng), hải sâm, vây cá mập, óc khỉ, đế chân voi… Thịt bào ngư đã chế biến có mùi thơm ngon, hấp dẫn, thường có mặt trong các yến tiệc sang trọng ở các nước phương Đông.
- Thịt bào ngư phơi khô còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao, cạnh tranh được với yến sào. Giá bào ngư không bao giờ ngừng tăng trên thị trường thế giới, có lúc vượt cả giá yến sào. Theo kinh nghiệm dân gian, thịt bào ngư nấu với gạo nếp đến dừ nhuyễn cho đàn bà đẻ ăn đều trong vài ngày là thuốc tăng tiết sữa.
- Nhân dân ở đảo Bạch Long Vĩ coi bào ngư như một loại thuốc cải lão hoàn đồng. Người ta truyền tụng rằng người nào được ăn bào ngư mỗi tháng một lần sẽ sống lâu. Ở Trung Quốc, thịt bào ngư được dùng như một món ăn – vị thuốc để bổ khí huyết, hạ huyết áp: Bào ngư tươi (50g) cắt miếng xào với tỏi (5g), hành (5g), rồi nấu chín với sò huyết (7,5g), sơn tra (7,5g) và nước dùng gà (400ml). Ăn cả cái lẫn nước làm một lần trong ngày. Thịt bào ngư phơi khô (20- 25g) nấu chín với củ cải, ăn cách ngày lại chữa đái đường.
Bài thuốc có bào ngư
Chữa đau mắt đỏ, mắt kéo màng, đau nhói về tối:
Vỏ bào ngư nung thành vôi, cỏ tháp bút (mộc tặc) sao khô. Hai thứ với lượng bằng nhau, tán nhỏ, rây bột mịn. Mỗi lần uống 12g, chiêu với nước thang có 3 lát gừng và một quả táo, rồi ăn cả bã. Ngày làm hai lần (Nam dược thần hiệu).
Chữa quáng gà (Minh mục hoàn):
Vỏ bào ngư (16g), sơn thù (16g), sơn dược (16g), cúc hoa (12g), bạch tật lê (12g), kỷ tử (12g), bạch thược (12g), phục linh (12g), trạch tả (12g), đơn bì (12g), thục địa (12g). Tất cả phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn, trộn với mật làm viên uống. Mỗi ngày dùng 20g, chia làm hai lần.
Chữa đau mắt, sợ chói:
Vỏ bào ngư, cúc hoa vàng và cam thảo (lượng bằng nhau) phơi khô, tán bột, ngày dùng 4g. Có thể sắc uống.
Chữa đau thần kinh toạ:
Vỏ bào ngư (15g), xác rắn (15g), bạc hà (15g), cắt nhỏ, chưng với rượu uống trong ngày.
Chữa đục thủy tinh thể:
Vỏ bào ngư (30g), huyền hồ phấn (10g), thuyền thoái (15g), xác rắn (15g), đại hoàng (5g), sắc với 400ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày (Tài liệu nước ngoài).
Ghi chú: Trong những loài bào ngư đã phát hiện, hai loài bào ngư hình vành tai và bào ngư hình bầu dục có trữ lượng đang suy giảm, có nguy cơ bị tuyệt chủng, được ghi vào Sách Đỏ quốc gia.