Gối hạc
Tên tiếng Việt: Gối hạc, Bí dại, Mũn, Phỉ tử, Kim lê, Mạy chia (Tày), Củ rối, Co còn ma (Thái), Trúc vòng, Mìa xẻng (Dao)
Tên khoa học: Leea rubra Blume ex Spreng.
Họ: Leeaceae (Gối hạc)
Công dụng: Chữa đau bụng, tê thấp, lợi tiểu, rong kinh, đậu sởi (Rễ sắc uống). Hạt chữa giun đũa và sán xơ mít.
Mô tả cây
- Cây mọc thành bụi dày, cao tới 1-1,5m. Thân có rãnh dọc và phình lên ở những mấu giống như gối con chim hạc (do đó có tên).
- Rễ củ màu hồng, trắng và vàng.
- Lá kép lông chim ba lần, phía trên hai lần, phiến lá chét có răng cưa thô to, dài 5-11cm, rộng 25-60mm, gần như không cuống.
- Hoa nhỏ màu hồng, mọc thành ngù ở đầu cành. Quả có đường kính 6-7mm, hạt 4-6, dài 4mm.
- Quả khi chín có màu đen.
- Mùa hoa quả: tháng 5-10 .
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc hoang dại ở những vùng đồi núi. Thường người ta đào lấy rễ vào mùa thu đông. Đào rễ về rửa sạch, thái mỏng phơi hay sấy khô.
Thành phần hoá học
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu
Công dụng và liều dùng
- Gối hạc là một vị thuốc được nhân dân dùng chữa bệnh đau nhức khớp xương, tê thấp, đau bụng, rong kinh.
- Ngày dùng 10-16g dưới dạng thuốc sắc thuốc bột hay ngâm rượu.
Chú thích:
Ngoài cây Leea rubra, người ta còn dùng cây Leea sambuciana với cùng tên gối hạc, kim lê, cây này cũng giống cây trên nhưng lá kép xẻ lông chim hai lần, cụm hoa lớn hình ngù, hoa trắng vàng, nhỏ bé, quả đen, lá khô đen ở mặt trên. Cùng một công dụng.
Đơn thuốc có Gối hạc được dùng trong dân gian:
Chữa sưng tấy, đau bắp chuối hay phong thấp sưng đầu gối: Rễ Gối hạc 40-50g sắc uống. Hoặc phối hợp với các vị thuốc khác: Rễ Gối hạc 30g, Cỏ xước hay Ngưu tất, Rễ gấc, Tỳ giải, mỗi vị 15g, cũng sắc uống.