- Xương bồ còn gọi là thạch xương bồ.
- Tên khoa học Acorus gramineus Soland và Acorus calamus L.
- Thuộc họ Ráy Araceae
- Thạch xương bồ (Rhizoma Acori graminei) là thân rễ phơi khô của cây thạch xương bồ Acorus gramineus Scoland.
- Thủy xương bồ (Rhizoma Acori calami) là thân rễ phơi khô của cây thủy xương bồ Acorus calamus L.
- Xương là phồn thịnh, bồ là một thứ cỏ; xương bồ là một thứ cỏ mọc chi chít.
Mô tả cây
- Thạch xương bồ là một loại cỏ sống lâu năm, có thân rễ mọc ngang, đường kính ti bằng ngón tay, có nhiều đốt, trên có những sẹo lá. Lá mọc đứng nhìn dải, dài 30-50cm, rộng 2-6mm, chỉ có gân giữa. Hoa mọc thành bông mo ở đầu một cán dẹt dài 10-30cm, cán này được phủ bởi một lá bắc, lá bắc này dài 7-20cm, rộng từ 2-4mm vượt cao hơn cụm hoa rất nhiều, làm cho cụm hoa trông như lệch sang một bên, dài từ 5-12cm, đường kính 2-4mm. Quả mọng màu đỏ nhạt, một ngăn, có thành gần như khô.
- Quanh hạt có một chất gôm nhầy .
- Thủy xương bồ Acorus calamus cũng giống như thạch xương bồ nhưng to và cao hơn. Lá dài từ 50-150cm, rộng từ 6-30mm. Lá bắc của cán hoa so với loài trước cũng dài hơn, thường dài tới 45cm. Cụm hoa mọc thành bông mẫm, so với cụm hoa trên cũng to và ngắn hơn, thường dài 4-8cm, đường kính 6-12mm. Mùa hoa tháng 5-7, mùa quả tháng 6-8.
Phân bố, thu hái và chế biến
- Thạch xương bồ và thủy xương bồ mọc hoang tại những miền núi phía Bắc và Trung nước ta, thường ở những nơi khe đá, khe suối, chỗ mát.
- Có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa thu ở các tháng 8-9. Hái về cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch đất cát và phơi khô.
Thành phần hóa học
- Trong thạch xương bồ có chừng 0,5-0,8% tinh dầu, trong tinh dầu có chừng 86% asaron C12H16O3, Ngoài ra còn có một chất phenol và axit béo.
- Tinh dầu có tỷ trọng 1,058 ở 150, chỉ số xà phòng 1,3 chỉ số este 5,79 độ sôi 140- 1600 ở 6mm thủy ngân.
- Trong thủy xương bồ có 1,5-3,5% tinh dầu, trong đó có thành phần chủ yếu cũng là asaron C12H16O3 (4 propenyl 1-3-5 trimetoxybenzol), rồi đến asarylandehyt C10H12O4. Ngoài ra còn một glucozit đắng gọi là acorin và chất tanin.
Tác dụng dược lý
Uống vào, xương bồ xúc tiến sự phân tiết các dịch tiêu hóa và hạn chế sự lên men không bình thường của dạ dày và ruột.
Xương bồ còn làm bớt sự căng thẳng của cơ trơn trong ruột. Ngoài ra nó hơi có tác dụng kích thích đối với da, do đó có thể tăng cường máu chạy mạnh hơn tại một nơi nào trên cơ thể.
Theo sự nghiên cứu của Trịnh Vũ Phi (1982, Trung Hoa y học tạp chí 38 (4): 315-318) trong ống nghiệm thì xương bồ có tác dụng sát khuẩn đối với một số khuẩn ngoài da.
Năm 1966, Nguyễn Ngọc Doãn, Nguyễn Địch, Bùi Thế Kỳ và Vũ Anh Vinh (Tạp chí y học Việt Nam, I: 8-14) đã nghiên cứu tác dụng của xương bồ trên thực nghiệm và trên lâm sàng đã đi tới kết luận:
- Xương bồ có tác dụng dự phòng và điều trị loạn nhịp tim gây ra trên động vật (thỏ và chó) bằng clorua, strohantin, hoặc thắt động mạch vành trái. Các súc vật đều được theo dõi bằng điện tâm đồ, huyết áp và nhịp thở. Khi xương bồ ổn định nhịp tim thù huyết áp và nhịp thở động vật không bị rối loạn, sóng R của điện tâm đồ đều cao lên.
- Trong lâm sàng, xương bồ có tác dụng điều hòa nhịp tim trong các trường hợp: nhịp xoang nhanh, nhịp đa hiệp xoang nút, ngoại tâm thu thành chuỗi. Nhưng có trường hợp không có kết quả đối với trung tâm nhĩ hoặc ngoại tâm thu, nhịp hai nhịp ba đã có khá lâu.
- Xương bồ có thể dùng kéo dài hàng tháng mà không gây độc, đáp ứng rất tốt trong điều trị ở bệnh viện cũng như ngoại trú. Liều lượng hàng ngày 10-15ml cao rượu thân rễ khô (1ml cao rượu: 1g xương bồ).
Công dụng và liều dùng
- Xương bồ là một vị thuốc được dùng cả trong Tây y và Đông y.
- Tính vị xương bồ theo Đông y: Vị cay, tính ôn, vào hai kinh tâm và can. Tác dụng tẩy uế, khai khiếu, tuyên khí, trục đờm, dùng chữa thần kinh suy nhược, kém tiêu hóa, thông cửu khiếu, sáng tai mắt, ôn tràn vị, trị phong hàn tê thấp. Trẻ con sốt nóng nấu nước tắm khỏi. Phàm âm huyết không đủ, tinh hoạt, ra nhiều mồ hôi cấm dùng. Kỵ sắt, ghét ma hoàng, đọc đởm, thịt dê, đường và mật.
- Trên thực tế xương bồ được dùng làm thuốc bổ, bổ dạ dày, giúp sự tiêu hóa. Mới đây được dùng làm thuốc điều hòa nhịp tim trong mỗi nhịp xoang nhanh, ngoại tâm thu thành chuỗi, nhịp do huyệt xoang nút. Ngày dùng 4 đến 10g dùng hàng ngày, kéo dài 1-2 tháng.
- Dùng ngoài làm thuốc trừ sâu bọ, chống chấy rận. Tại Malaixia người ta tán thân rễ xương bồ rắc vào gốc cây có mối. Còn dùng làm bột thuốc đánh răng.
Đơn thuốc có xương bồ
- Viên roter (neutracid) (chữa đau dạ dày): Mỗi viên có xương bồ 0,025g; đại hoàng hay buốc đen (bột) 0,025g; natri bicacbonat 0,2g; magiê cacbonat 0,4g; nitrat bitmut bazơ 0,35g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1-2 viên vào sau bữa ăn. Thời gian điều trị liên tục trong 1-3 tháng. Sau khi nghỉ một tháng lại tiếp tục lần nữa.
- Viên bicalinum của Liên Xô cũ cũng có thành phần như trên, nhưng trong mỗi viên còn thêm 0,005g rutin và 0,005g kallin. Cách dùng cũng như viên roter. Còn dùng chữa viêm tá tràng.
- Xương bồ chọn thứ dài hơn 9 đốt, phơi khô trong râm, tán nhỏ, ngày uống 2 lần, sáng tối mỗi lần 3g chữa tai ù, hay quên, hay mệt mỏi.
3. Xương bồ phơi khô trong râm, tán nhỏ rắc lên các mụn nhọt lâu liền, hậu bối.
Trong sách cổ, coi xương bồ là thuốc tiên: Người ta lấy xương bồ về, ngâm nước vo gạo một đêm, đem cạo hết vỏ, thái mỏng phơi khô, tán nhỏ, luyện với mật, viên bằng hạt ngô. Sấy hay phơi khô. Ngày uống hai lần, sáng sớm và tối trước khi đi ngủ, mỗi lần 30 viên, dùng rượu chiêu thuốc. Sau 1 tháng, tiêu cơm, 2 tháng trừ đờm, hàng năm thì xương tủy đầy, đẹp người, đen tóc, răng rụng lại mọc (Đạo tạng kinh).