Huyết giác
Tên tiếng Việt: Huyết giác, Cau rừng, Giáng ông, Dứa dại, Cây xó nhà, Giác máu, Co ởi khang (Thái), Ởi càng (Tày)
Tên khoa học: Dracaena cochinchinensis (Lour.) S.C. Chen.
Họ: Dracaenaceae (Huyết dụ)
Công dụng: Chữa tê thấp, ứ huyết (Gốc hoá gỗ).
Mô tả cây
- Huyết giác là một loại cây nhỏ, cao chừng 1-1,5m, có thể tới 2-3m, sống lâu năm. Thân phân thành nhiều nhánh. Cây nhỏ có đường kính chừng 1,6-2cm, cây to có đường kính tới 20-25cm.
- Lá hình lưỡi kiếm, trung bình dài 25-80cm, rộng 3-4cm, tới 6-7cm, cứng, màu xanh tươi, mọc cách, không có cuống. Lá rụng để lại trên thân một sẹo. Thường chỉ còn một bó lá tụ tập trên ngọn.
- Cụm hoa mọc thành chùm dài tới 1m, đường kính phía cuống tới 1,5-2cm trên có lá nhỏ, dài 15cm, rộng 2cm, phân cành nhỏ dài tới 30cm. Hoa tụ từng 2-4 hoa gần nhau. Hoa nhỏ, đường kính 7-8mm, màu lục vàng nhạt.
- Qủa mọng hình cầu, đường kính chừng 1cm. Khi khô có màu đen, hạt hình cầu, đường kính 6-7cm.
- Mùa hoa quả: tháng 2-5.
Phân bố, thu hái và chế biến
- Cây huyết giác thường mọc hoang tại các vùng núi đá xanh vùng Quảng Ninh, Nam Định, Hà Nam, Hà Tây, Hoà Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh. Núi đất không thấy có huyết giác. Phải những cây già, đã chết và đổ nát mới có gỗ. Những cây đã thành huyết giác có màu đỏ hoặc có nhiều đám màu đỏ, mùi vị không có gì đặc biệt. Trong những chỗ màu đỏ có cảm tưởng như do một loài sâu nào đục khoét gây ra.
- Hiện nay chưa rõ nguyên nhân do sâu hay do loại nấm này gây ra huyết giác và từ cây chết đến khi có huyết giác là bao nhiêu năm. Khả năng thu mua huyết giác hằng năm của ta có thể lên tới 20-30 tấn.
- Việc thu hái có thể tiến hành quanh năm. Chặt về phơi khô là được. Huyết giác hiện nay được thu mua để dùng trong nước và xuất sang Trung quốc, nhưng cho đến nay chúng tôi vẫn chưa tìm được đông y Trung quốc dùng làm gì, với tên là gì. Tên huyết giác chỉ là tên các nhà đông y Việt nam thường dùng mà thôi.
Bộ phận dùng
Phần gỗ màu đỏ nâu, được tạo thành trong cây huyết giác già, lâu năm, chết mục, được thu hái quanh năm cạo bỏ chỗ gỗ mục, rửa sạch, phơi khô. Hoặc lúc dược liệu còn ẩm, mềm, đem thái thành miếng dài 3-5cm, dầy 3-5mm.
Thành phần hóa học
- Năm 1961 nghiên cứu sơ bộ, Đặng thị Mai An không thấy antoxyan, không thấy cacmin và chất nhựachỉ mới biết rằng trong huyết giác có chất màu đỏ tan trong cồn, axeton, axit, không tan trongete, clorofoc và benzen. Với kiềm, màu đỏ vàng lúc đầu chuyển sang màu da cam (Bộ môn dược liệu và thực vật trường đại học y dược, Hà Nội 1961)
- Nhựa trong gỗ Huyết giác gồm hỗn hợp C6H5-CO-CH2-CO-OC8H9O và dracoresinotanol chiếm 57-82%, dracoalben khoảng 2,5%, dracoresen 14%, nhựa không tan 3%, phlobaphen 0,03%, tro 8,3%, tạp thực vật 10,4%.
Tác dụng dược lý
1. Tác dụng chống đông máu:
Dịch chiết nước từ huyết giác có tác dụng phòng ngừa sự hình thành huyết khối thực nghiệm. Thí nghiệm trên ống kính, dịch chiết huyết giác có tác dụng ức chế kết tập tiểu cầu do ADP gây nên.
2. Tác dụng kháng khuẩn:
Dạng chiết từ huyết giác có tác dụng ức chế sự phát triển của Staphylococcus aureus. Dịch chiết nước từ huyết giác trên ống kính có tác dụng ức chế một số nấm gây bệnh.
Tác dụng khác
- Dịch chiết huyết giác (25%) thí nghiệm trên chuột nhắt trắng, bằng đường tiêm phúc mạc với liều 0,1 – 0,15ml/10g thân trong, có tác dụng nâng cao tỷ lệ súc vật sống sót trong điều kiện thiếu oxy, áp suất giảm.
- Thí nghiệm trên thỏ, dịch tiêm huyết giác bằng đường tiêm bắp thịt với liều 2 ml/kg làm giảm hàm lượng glycopen trong gan và tăng lượng IgG và IgA trong máu.
- Giãn mạch: Chất tan trong cồn của huyết giác thí nghiệm trên hệ mạch tai thỏ với nồng độ 1:270 có tác dụng giãn mạch.
Tính vị, công năng
Huyết giác có vị ngọt, tính bình, vào hai kinh tâm và can, có tác dụng tiêu huyết ứ, thông mạch, hoạt huyết, chỉ huyết.
Công dụng và liều dùng
- Huyết giác mới được dùng trong phạm vi kinh nghiệm nhân dân để chữa những trường hợp ứ huyết, bị thương máu tụ, sưng tím bầm, mụn nhọt, u hạch.
- Liều dùng: 8-12g, dùng riêng hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác. Nhân dân các địa phương thường ngâm rượu huyết giác với tỉ lệ 2:10 uống chữa đau mỏi sau khi lao động nặng nhọc, đi đường xa sưng chân, đặc biệt chữa bị thương tụ máu (uống và xoa bóp).
- Ở Trung Quốc, huyết giác được dùng chữa bệnh tràng nhạc (lao hạch) vỡ mủ. Huyết giác sao 8g, đại táo sao thành than 20 quả, địa hoàng khô 16g. Nghiền thành bột, làm cao dán.
Đơn thuốc có huyết giác
- Chữa vết thương ứ huyết, bầm tím: Huyết giác 10g, rễ cốt khí củ 10g, rễ cỏ xước 10g, rễ lá lốt 10g, bồ bồ 10g, dây đau xương 3g, cam thảo nam 8g, mã đề 6g. Sắc nước uống. Kết hợp dùng huyết giác ngâm rượu với địa liền, thiên niên kiện, đại hồi, bột long não, quế chi để xoa bóp ngoài.
- Chữa vùng tim đau nhói, ngực căng tức, vai đau ê ẩm, sống lưng đau bại: Huyết giác, Đương quy, Ngưu tất, Mạch môn, Sinh địa, mỗi vị 12g sắc uống.
- Thuốc bổ máu (Hợp tác xã thuốc dân tộc Hợp Châu – Chùa Bộc): Huyết giác 100g, hoài sơn 100g, hà thủ ô 100g, quả tơ hồng 100g, đỗ đen sao cháy 100g, vừng đen 30g, ngải cứu 20g, gạo nếp rang 10g. Tất cả tán bột, trộn với mật làm thành viên. Ngày dùng 10 – 20g.