Cá trê
Tên tiếng Việt: Cá trê, Cá trê đen
Tên khoa học: Clarias fuscus Lacépède
Họ: Cá trê (Clariidae)
Công dụng: Là món ăn- vị thuốc rất tốt cho cơ thể đang suy yếu, người mới ốm khỏi. Chữa sa dạ con, chữa viêm phế quản.
Mô tả
Thân dài, có da trần nhẵn, bóng. Đầu dẹt bằng, thân và đuôi dẹt bên, mang cá là một bộ phận đặc biệt gọi là hoa khế làm cho cá có thể sống trên cạn được lâu. Miệng rộng, hướng ra phía trước, có răng sắc nhọn, có 4 đôi râu dài, mắt nhỏ, lỗ mũi cách nhau khá xa. Vây lưng và vây hậu môn rất dài, các tia vây gần bằng nhau, vây đuôi tròn, vây ngực có tia gai ngắn, cứng, khía răng cưa, vây bụng nhỏ. Màu đen hoặc nâu đen, bụng nhạt hơn.
Phân bố, sinh thái
Cá nước ngọt, sống ở ao, hồ, ruộng nước có nhiều bùn, tối tăm. Về mùa đông, cá trê rúc trong bùn, nằm im tránh rét. Ăn tạp nhưng chủ yếu là động vật không xương sống nhỏ, cá con. Mùa sinh đẻ vào tháng 3-6.
Bộ phận dùng
Cả con còn tươi.
Thành phần hoá học
Cá trê chứa 16,5% protid, 11,9% lipid, 20mg% Ca, 21 mg% P, 1 mg% Fe, 0,1mgʻ% vitamin B, 0,04mg% B2, 1,4mg% PP và cung cấp 178 calo trong 100g thịt (Viện Dinh dưỡng).
Tính vị, công năng
Thịt cá trê có vị ngọt, tính bình, không độc, có tác dụng bổ huyết, giảm đau, sinh tân, ích khí.
Công dụng
Thịt cá trê om hay hầm là món ăn- vị thuốc rất tốt cho cơ thể đang suy yếu, người mới ốm khỏi. Cá trê giã nhỏ với lá cỏ xước, rồi nấu với lá vông nem, ăn cả cái lẫn nước chữa sa dạ con; với than quả bồ kết (0,5- 1g) lại chữa viêm phế quản.
Thuốc giải độc có cá trê (1 con) làm thịt, bỏ ruột, lấy chu sa đã thuỷ phi, tán bột mịn (1 g) rắc đều vào cá, nướng chín. Ăn với ít muối hoặc nước mắm làm 3– 4 lần trong ngày.
Cách thuỷ phi chu sa. Mài chu sa vào bát sứ. Dùng nam châm hút hết mùn sắt. Cho nước vào, khuấy đều, để lắng. Gạn bỏ nước trong. Lại thêm nước, khuấy đều, làm vài lần đến khi nước ở trên trong là được. Lấy cặn gói vào giấy màu đen, phơi nắng đến khô.