Keo dậu
Tên tiếng Việt: Keo giậu, Bồ kết dại, Táo nhân, Bò chét, Bình linh, Phắc cănthin (Tày), Nằng dung điằng (Dao)
Tên khoa học: Leucaena leucocephala (Lam.) de Wit
Họ: Mimosaceae (Trinh nữ)
Công dụng: Thuốc tẩy giun, sán (Rễ, hạt).
Mô tả cây
- Cây keo hay bồ kết dại là một cây nhỡ không có gai, cao độ 2-4m, hoặc hơn
- Lá 2 lần kép lông chim, có cuống chung dài 12-20cm, ở phía dưới phình lên và có một hạch ở dưới đuôi cuống phụ đầu tiên. Trên cuống có lông ngắn nằm rạp xuống. Lá chét từ 11-18 đôi, gần như không cuống.
- Quả giáp dài 13-14cm, rộng 15mm, màu nâu, đầu có một mỏ nhọn cứng.
- Hạt có khoảng 15-20, hạt dẹt chỉ hơi phồng lên, sắp nghiêng trong quả, dài 7mm rộng 4mm phẳng nhẵn, màu nâu nhạt, hình bầu dục, hơi lẹm ở phía dưới.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây keo dâu mọc hoang và được trồng khắp nơi trong nước ta để làm hàng rào, làm phân xanh bóng mát. Trâu bò rất thích ăn lá cây này. Khi quả chín lấy về đập lấy hạt phơi hay sấy khô. Ngoài công dụng làm thuốc, hạt còn đang được nghiên cứu làm thức ăn cho súc vật.
Thành phần hóa học
Được nhiều người nghiên cứu, sau đây là một số kết quả chính:
- Hạt không chứa tinh bột. Chứa 12-14% chất nhầy, chất đường, 4,45% tro, 21% protit, 5,5% chất béo và chất leuxenola (còn gọi là leuxenin hay mimono phenonlic (Mascre 937 và Roger-Johnson J.L., 1949) chất leuxenola còn gọi là Leuxenin C8H10O4N2 chứa trong lá và hạt với tỷ lw65 3% trong lá khô) và 5% (chứa trong cây xấu hổ Mimosa pudica) giống nhau và 2 chất như 1 (Vibau J.P 1946). Chất leuxenin tan trong nước,trong cồn etylic và metylic, gần như không tan trong các dung môi hữu cơ khác, có tính chất độc. Leuxenola hydrat có độ chảy 291°, dạng khô kiệt có độ chảy 227-228° cho mối clohydrat với độ chảy 179°5, muối iohydrat có độ chảy 183-183°5 năng suất quay cực D=-21°(H2O).
- Theo Tominaca (Nhật bản 1949) trong lá còn chứa một chất glucozit.
Tác dụng sinh lý
Trẻ con thường ăn hạt keo xanh, không kể liều lượng thấy có ra giun, không có hiện tượng độc
- Thời thuộc Pháp, hạt keo có được thí nghiệm dùng trị giun đũa ở bệnh viện đồn Thủy (cơ sở của bệnh viện 108 hiện nay) kết quả thấy có tác dụng trị giun với liều lượng 50g một ngày.
- Năm 1961, bệnh viện Ninh giang có dùng trị giun cho 98 ca cũng đạt được kết quả tốt, không thấy có triệu chứng ngộ độc nào. Cách và liều dùng như sau:
Rang hạt cho đến khi nở, tán bột
- Trẻ em 3-5 tuổi uống 5g /ngày uống luôn 3 ngày
- Trẻ em 6-10 tuổi uống 5g /ngày uống luôn 3 ngày
- Trẻ em 11-15 tuổi uống 5g /ngày uống luôn 3 ngày
Mặc dầu thực tế, thấy ăn vào giun ra, nhưng thí nghiệm trên giun đất nước sắc hạt keo không thấy có tác dụng (Bộ môn dược liệu 1960)
Nhiều nơi người ta dùng hạt keo này rang lên uống thay cà phê
Trong thú y, do tỷ lệ protit cao trong hạt keo, cho nên nhiều người thử cho súc vật ăn nhưng kết luận về giá trị thức ăn đối với súc vật chưa thống nhất
- Đối với gà con, tỷ lệ chết của gà con tăng lên, gà thường không thích ăn hạt keo
- Đối với thỏ: độ độc có thể chết (lá và hạt)
- Đối với lợn có thể gây mất đẻ một thời gian
- Loài ăn cỏ mà không nhai lại như lừa, ngựa, hay lợn ăn hạt keo sẽ rụng lông, bờm rụng, lông đuôi rụng. Tái lại trâu bò là loài ăn cỏ nhưng nhai lại, ăn hạt keo không thấy hiện tượng đó
Công dụng và liều dùng
Nhân dân thường dùng hạt keo làm thuốc chữa giun với liều 10-15g cho trẻ con, có thể uống tới 25-50g đối với người lớn. Uống liền 3 sáng vào lúc đói