Kiệu
Tên tiếng Việt: Kiệu, Dã phỉ, Giối banh
Tên khoa học: Allium chinensis G. Don
Họ: Alliaceae (Hành)
Công dụng: Chữa cảm cúm, kích thích tiêu hoá, đái rắt, phụ nữ có thai bị lạnh, đau bụng, bạch đới, lỵ, ngã ngất hôn mê, bỏng.
Mô tả cây
- Cây thảo nhỏ có thân hành màu trắng, hình trái xoan thuôn, bao bởi nhiều vảy mỏng. Lá mọc ở gốc, hình dải hẹp, nửa hình trụ, dài 15-60cm, rộng 1,5-4mm. Cụm hoa hình tán kép trên một cuống hoa dài 15-60cm, mang 6-30 tán hoa màu hồng hay màu tím.
- Mùa hoa: tháng 6-8
Phân bố, sinh thái
- Nguyên sản của Trung Quốc, sau lan xuống phía nam, đến Lào, Thái Lan, Malaysia và Việt Nam. Ở Việt Nam, kiệu cũng được trồng khá phổ biến ở những tỉnh miền núi giáp biên giới phía bắc như Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Cao Bằng và Lạng Sơn. Cây đặc biệt ưa ẩm, ưa sáng hoặc chỉ hơi chịu bóng. Kiệu cũng ưa khí hậu mát, nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng từ 15 đến 25 oC.
- Kiệu được dùng rộng rãi ở nông thôn để lấy củ muối dưa, làm gia vị hay làm thức ăn.
Bộ phận dùng
Cả cây (bỏ rễ) .
Thành phần hoá học
Thân hành cây kiệu chứa chinenosid II. Dịch chiết methanol kiệu cho các saponin steroid. Dịch chiết kiệu chứa laxogenin là hoạt chất có tác dụng kháng u cao (CA 114: 135660 h)
Tính vị, công năng
Kiệu có vị cay đắng, tính ấm; có tác dụng làm ấm bụng, tán khí kết, khỏi đầy hơi, bổ thận khí, mạnh dương; còn có tác dụng lợi tiểu.
Công dụng
Kiệu cũng dùng chữa đái dắt và bạch trọc như hành củ. Lại dùng chữa phụ nữ có thai bị lạnh đau bụng, trị lỵ, ngã ngất hôn mê, bỏng. Nếu ăn được đều thì chịu được rét lạnh, bổ khí, điều hòa nội tạng, cho người ta béo khoẻ.
Đơn thuốc:
- Chữa phụ nữ có thai bị lạnh đau bụng, thai không yên: Dùng Kiệu 32g, Đương quy 8g, sắc uống.
- Chữa đi lỵ: Dùng một nắm Kiệu nấu cháo ăn.
- Chữa tự nhiên ngã ngất hôn mê như chết, hoặc trong khi ngủ mà bỗng dưng bị chết là do trúng khí độc: Lấy Kiệu giã vắt lấy nước cốt, nhỏ vào mũi sẽ tỉnh.
- Chữa bị bỏng: Dùng Kiệu giã nhỏ, hoà với mật, vắt lấy nước bôi thì chóng lành (theo Lê Trần Đức).