Lông cu li
Tên tiếng Việt: Cẩu tích, Lông cu ly, Cù liền, Lông khỉ, Kim mao, Co cút pá (Thái), Cút báng (Tày), Đạng pàm (Kho), Nhải cút viằng (Dao)
Tên khoa học: Cibotium barometz (L.) J. Sm.
Họ: Dicksoniaceae ( Kim Mao)
Công dụng: Chữa tê thấp, đau lưng (Thân rễ ngâm rượu hoặc sắc uống). Thuốc cầm máu (Lông dịt vết thương).
Mô tả cây
- Lông cu li hay còn được gọi là cây Cẩu tích
- Thân rễ mọc đứng, thường ngắn, to, phủ lông mềm màu vàng nâu. Khi cắt hết lá còn lại những gốc cuống thì thân rễ lúc này giống con cu li.
- Lá kép dài 1-2m, chia nhiều lá chét xếp dạng lông chim, các lá chét này chia thành nhiều lá chét bậc hai xếp sít nhau, lá chét bậc hai có gốc bằng nhau, đầu thon mảnh, lại chia thành nhiều đoạn thuôn hẹp, mặt trên màu lục thẫm, mặt dưới nhạt hơn; cuống lá kép rất to và cứng, màu nâu, cũng có lông mềm.
- Cơ quan sinh sản là những túi bao tử có áo màu nâu, mọc ở mặt dưới lá, xếp đều đặn ở hai bên gân giữa, trong đựng nhiều bào tử, bao tử hình tam giác hay hơi tròn, sần sùi, màu sang hay đen nhạt, có cánh.
- Mùa sinh sản: tháng 10-1
Cây dễ nhầm lẫn:
- Cây áo cốc (Dennstaedtia scabra)
- Cây lá lược (Microlepia speluncae)
- Cây vảy lợp (Davallia divaricate)
Phân bố, thu hái và chế biến
Cẩu tích mọc hoang khấp nơi ở miền rừng núi Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Philipin, Malaixia và Inđônêxia. Miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Vân Nam) cũng có.
Thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào cuối thu sang đông. Khi hái về thì rửa sạch cắt bỏ rễ con, cuống lá và lông vàng phủ xung quanh thân rễ, thái mỏng, phơi khô. Có khi đồ hơi nước rồi mới phơi, làm như vậy nhiều lần; có khi lại còn đổ với đậu đen chín lần đồ, chín lần phơi rồi cuối cùng thái mỏng phơi khô.
Thành phần hoá học
Thân rễ cẩu tích chứa 30% tinh bột. Lông culi chứa tannin và sắc tố.
Phân lập từ thân rễ cẩu tích nhiều hợp chất và nhận dạng là β-sitosterol, acid stearic, daucosterol, acid protocatechuic, acid cafeic
Công dụng và liều dụng
- Chỉ mới được dùng trong phạm vi nhân dân làm thuốc bổ gan, thận chữa đau lưng, đau khớp xương, đau gối, chữa phong thấp. Người già hay đi tiểu tiện nhiều lần.
- Ngày dùng 10-18g dưới dạng thuốc sắc.
- Còn dùng chữa bệnh phụ nữ khí hư, bạch đới, phụ nữ có thai mà lưng, người đều đau.
- Theo tài liệu cổ: cẩu tích có vị đắng, ngọt, tính ôn, vào 2 kinh can và thận. Có tác dụng bổ can thận, mạnh lưng gối, trừ phong thấp, chữa phong hàn, thấp tỳ, lưng đau chân mỏi, thất niếu (không đi đái được), đái nhỏ giọt.
- Những người thận hư hữu nhiệt, tiểu tiện bất lợi hoặc đỏ vàng không dùng được.
Bài thuốc có vị Cẩu tích
Chữa ngang lưng đau nhức: Cẩu tích 15g, ngưu tất 10g, đồ trọng 10g, sinh mễ nhân 12g, mộc qua 6g, nước 600ml. sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày. Có thể thêm 20ml rượu trong khi uống thuốc, nếu uống được rượu.Thân rễ cẩu tích chứa 30% tinh bột. Lông culi chứa tannin và sắc tố.
Chữa phong thấp, chân tay tê bại: Cẩu tích 20g, ngưu tất 8g, mộc qua 12g, tang chi 8g, tùng tiết 4g, tục đoạn 8g, đỗ trọng 8g, tần giao 12g, quế chi 4g, nước 600g. Sắc còn 250ml, chia 2 lần uống trong ngày.
Chữa đau lưng mỏi gối do thận yếu: Cẩu tích 20g, rễ gối hạc 12g, củ mài 20g, rễ cỏ xước 12g, bổ cót toái 16g, dây đau xương 12g, thỏ ty tử 12g, tỳ giải 16g, đỗ trọng 16g. Thêm nước, sắc uống.
Chữa thận hư, sống lưng đau mỏi: Cẩu tích 16g, thục địa 12g, đỗ trọng 10g, ô dược củ sung, dây tơ hồng sao, quả kim anh, đều 8g, sắc uống.
Chú thích:
- Ngoài thân rễ cẩu tích, người ta còn dùng lông vàng phủ xung quanh thân rễ để đắp các vết thuơng, vết đứt tay, đứt chân để cầm máu.
- Tác dụng này do các lông đó hút huyết thanh của máu và giúp cho sự tạo máu cục, làm cho máu chóng đông. Có khi người ta còn dùng lông này để nhồi đệm, nhồi gối.