Mè lai
Tên tiếng Việt: Dầu lai, Dầu mè tía
Tên khoa học: Jatropha gossypiifolia L.
Họ: Euphorbiaceae (Thầu dầu)
Công dụng: Chữa ghẻ lở (Dầu hạt bôi). Mụn nhọt, Eczema (Lá). Điều kinh (Vỏ).
Mô tả
- Cây nhỏ, cao 1 – 2m. Lá mọc so le, chia 3 thùy, đôi khi 5 thùy, gần như tròn, đường kính 12 – 15cm, gốc hình tim rộng, đầu hơi nhọn, mép có lông mi dạng tuyến rất nhỏ; cuống lá dài bằng phiến cũng có lông dạng tuyến; lá kèm xẻ.
- Cụm hoa mọc thành chùy; lá bắc thuôn; hoa màu đỏ, đơn tính; hoa đực có lá dài hình trái xoan có lông ở mặt ngoài; cánh hoa nhẵn, nhị một bó; hoa cái có lá đài hơi dài hơn ở hoa đực, cánh hoa giống hoa đực; bầu có lông.
- Quả nang, hình cầu nhẵn, bằng ở hai đầu, có 3 khía; hạt màu xám đỏ, điểm chấm đen. Mùa hoa quả: tháng 4-6.
Phân bố, sinh thái
Mè lai có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, từ Mexico đến Paraguay; sau được du nhập và phát triển trồng ở khắp các vùng nhiệt đới châu Á, châu Phi và nhiều đảo khác ở Thái Bình Dương.
Ở Việt Nam, mè lai là cây trồng, song cũng có thể thấy cây đã trở nên hoang dại hóa ở nhiều tỉnh thuộc vùng trung du và núi thấp của miền Bắc, như Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Tây, Quảng Ninh… Mè lai thuộc loại cây đặc biệt ưa sáng và chịu được khô hạn. Người ta thường trồng mè lai làm hàng rào xung quanh các ruộng cao hoặc bờ nương rẫy ở vùng đồi. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm; tái sinh tự nhiên tốt từ hạt và có thể trồng được dễ dàng bằng cắm cành.
Bộ phận dùng
Lá, hạt và vỏ cây.
Tác dụng dược lý
Cao ether của cành non mè lai có hoạt tính kháng khuẩn đối với Staphylococcus aureus và Escherichia coli. Cao nước của cây có tác dụng diệt côn trùng. Trong thử nghiệm về hoạt tính chống sốt rét in vitro trên Plasmodium falciparum, cao chiết nước nóng có tác dụng ức chế 100% với liều tương đương 30g. Cao cồn rễ mè lai có hoạt tính ức chế ung thư thực nghiệm trên động vật.
Đã phân lập được jatrophon và một số chất có liên quan có hoạt tính kháng ung thư trên bệnh bạch cầu lympho p – 388 in vitro và in vivo, và trên carcinom mũi – hầu in vitro. Jatrophon còn có tác dụng ức chế trực tiếp và không cạnh tranh trên co bóp tim và cơ trơn cô lập, có thể do làm thay đổi sự giữ Ca2+ trong tế bào.
Nhựa mủ và cao methanol từ hạt mè lai được nghiên cứu về tác dụng diệt sên, là vật chủ trung gian gây lây nhiễm nhiều bệnh (sán máng, sán lá). Nhựa mủ có hiệu lực cao đối với sên Lymara acuminata trong môi trường nước. Độc tính của nhựa mủ một phần do ức chế acetylcholinesterase và các phosphatase acid và kiềm ở ốc sên.
Công dụng
Dầu hạt mè lai được dùng bôi ngoài trị bệnh phong. Nhựa cây bôi chữa rắn cắn. Lá sắc uống chữa ho khan, mỗi lần dùng 7-12 lá. Còn dùng lá mè lai, lá vạn niên thanh và củ ngô đồng nấu thành cao để làm thuốc dán.
Ở một số nước Đông Nam Á, nhựa mủ mè lai được dùng ngoài trị loét, lá tươi giã đắp trị sưng vú. Lá dùng uống trị bệnh sốt từng cơn hoặc nấu nước tắm trị sốt. Nước sắc lá là thuốc tẩy, làm dễ tiêu, trị bệnh về tai và hoa liễu, thuốc lọc máu. Lá đắp ngoài trị mụn nhọt, eczema và ngứa. Rễ trị bệnh phong và nước sắc vỏ cây có tác dụng điều kinh.
Mè lai được dùng ở Ấn Độ trị bệnh đường tiết niệu, nước sắc vỏ cây để điều kinh, nước sắc lá trị đau dạ dày, bệnh hoa liễu và đổ lọc máu. Lá dùng đắp trị mụn nhọt, ngứa, eczema, dịch ép lá bôi trị loét lưỡi trẻ nhỏ, lá tươi đắp tật sưng vú. Ở Nepal, nhân dân trị đau răng bằng nhựa mủ mè lai.
Ở Haiti, nước sắc lá mè lai dùng uống trị đau bụng, dịch ép lá trị phù. Ở Đông Phi, nhân dân dùng nhựa mủ trị vết loét trên lưỡi trẻ nhỏ; lá được dùng ngoài trị bệnh ngoài da và uống để nhuận tràng; trồng mè lai làm hàng rào để đuổi rắn. Ở Venezuela, rễ được đùng trị bệnh phong và giải độc rắn cắn.
Ở Costa Rica, nước sắc toàn cây mè lai được coi là có tác dụng trị ung thư, mặt khác ở đó có tỷ lệ người mắc ung thư thực quản cao, có thể do mè lai chứa một số este đồng gây ung thư trong đầu hạt. Ở đảo Ăng Ti, nhân dân dùng lá tươi trị sốt trong sốt từng cơn, nhựa mủ bôi trị loét, dầu hạt dùng ngoài trị bệnh phong.
*Nguồn: Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam