Ngũ linh chi
Tên tiếng Việt: Thảo linh chi, Ngu linh tử, Hàn trước phần, Hàn hiệu trùng phần, Hàn hiệu điểu
Tên khoa học: Faeces Trogopterum
Công dụng: Dùng chữa kinh nguyệt không đều, thấy kinh đau bụng, đẻ xong huyết xấu ra không hết sinh đau bụng, ngực đau, trẻ con bị cam; dùng ngoài chữa rắn, rết cắn.
Nguồn gốc
- Trước hết cần chú ý là vị ngũ linh chi cho đến nay ta vẫn còn phải nhập của Trung Quốc.
- Mà ngay tại Trung Quốc, nguồn gốc vị ngũ linh chi hiện cũng chưa xác định chắc chắn.
- Nhiều tài liệu cho rằng ngũ linh chi là phân một loại dơi Pteropus psclaphon Lay hoặc Pier opus dasvmailus Temminck đều thuộc họ Dơi Picropodidac. Có tài liệu lại xác định là phân của loài dơi Meạachiroptera cùng họ. Tuy nhiên, gần đây có tác giả đã nghiên cứu vị ngũ linh chi thấy trong ngũ linh chi không có những thức ăn thường gặp của các loài dơi, đã xác định ngũ linh chi là phân của một loài sóc bay chưa thấy ở nước ta Tmẹopterus xonthipes Milne-Edwrds thuộc họ Sóc bay Petauristiđae.
- Vào các tháng 10-12 người ta vào núi tìm những hang sẵn có ngũ linh chí lấy về, loại bỏ tạp chất phơi khô. Căn cứ hình dáng không giống nhau, người ta chia ra làm ngũ linh chi khối (hay đường ngũ linh chi) và tán ngũ linh chi (ngũ linh chi vụn). Trước khi dùng còn phải sao lên.
Thành phần hóa học
Trong ngũ linh chi có chất nhựa, urê và axit uric.
Công dụng và liều dùng
- Ngũ linh chi hiện nay còn là một vị thuốc dùng trong nhân dân. Trong các tài liệu cổ, người ta cho ngũ linh chi có vị ngọt, tính ôn, vào kinh can. Có tác dụng thông lợi huyết mạch, hành ứ hết đau.
- Dùng chữa kinh nguyệt không đều, thấy kinh đau bụng, đẻ xong huyết xấu ra không hết sinh đau bụng, ngực đau, trẻ con bị cam; dùng ngoài chữa rắn, rết cắn. Ngày uống 6-12g dưới hình thức thuốc sắc hay thuốc viên.
Đơn thuốc có ngũ linh chi:
Chữa tử cung xuất huyết, đau bụng khi thấy kinh: Ngũ linh chi 10g, bồ hoàng 10g. cả hai vị sao vàng, tán nhỏ. Ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 2-3g.